Xây Cất, Cư Trú, Suy Tư
Martin Heidegger Dịch từ bản chuyển ngữ tiếng Anh "Poetry, Language, Thought" , Albert Hofstadter dịch, Harper Colophon Books, New York, 1971.
I
Những gì tiếp sau đây là ý niệm của chúng tôi về sự ở và công trình. Những ý niệm này không phải để khai phá ra ý tưởng kiến trúc, mà sau cùng chỉ để rút ra quy luật cho việc xây dựng. Thử nghĩ lớn, không chỉ xem công trình như một tác phẩm nghệ thuật hay một kỹ nghệ về xây dựng, hơn thế nữa, truy tìm căn nguyên của công trình, bao gồm tất cả những thứ thuộc về nó. Chúng tôi tự đặt câu hỏi:
- Ở là gì?
- Công trình để ở thì như thế nào?
Chúng tôi cho rằng nơi ở dường như cũng chỉ là những loại công trình. Công trình có trước, việc ở về sau cũng là mục đích của nó. Nói như vậy không có nghĩa là mọi công trình đều là nơi ở. Những cây cầu, nhà kho, sân vận động và trạm xăng là công trình nhưng không phải nơi ở, tuy vậy chúng đều nằm trong phạm trù ở của chúng ta. Phạm trù đó vươn tới cả những dạng công trình đã nhắc đến và nó không còn chỉ bó gọn trong nơi để ở. Người lái xe tải coi chiếc xe của mình là nhà, nữ công nhân coi xưởng dệt là nơi ở của mình, kỹ sư trưởng lại coi trạm năng lượng là chỗ ở của anh ta, nhưng rốt cuộc tất cả họ đều không sống ở đó. Công trình chứa chấp con người. Anh ta sống ở đó và nhưng đó cũng chưa hẳn là sự ở, vì ở có nghĩa là ta đã gây dựng cuộc sống cố định. Sự thiếu hụt nhà ở đang dần được bù đắp; những công trình nhà ở cung cấp nơi an cư cho con người. Nhà cửa ngày nay đều được quy hoạch tốt, dễ dàng sửa chữa, giá hấp dẫn, thông gió chiếu sáng tốt, nhưng, chúng có thực sự chịu bất cứ nghĩa vụ nào cho hoạt động cư trú diễn ra trong chúng?
Ngay cả những công trình không phải nhà ở đã liệt tên trên, theo cách nào đó, vẫn được định hình bởi hoạt động ở , hơn thế chúng đảm bảo đủ chức năng cho con người duy trì cuộc sống. Vì thế, hoạt động cư trú trong bất kỳ trường hợp nào cũng là thứ cuối cùng ảnh hưởng lên tất cả các loại công trình. Hoạt động ở và công trình là một mối quan hệ mục đích - phương tiện. Dù vậy, vẫn có lý khi chúng tôi tách thành hai hoạt động độc lập. Tuy nhiên khi nhìn theo hướng phương tiện - mục đích thì ta đã bị hạn chế khả năng nhận ra cốt lõi của mối quan hệ này. Công trình không chỉ là một phương tiện và một cách thức hướng tới việc ở , bản thân nó khi được xây lên đã hàm chứa mục đích sử dụng là để ở . Điều gì đã nói với chúng ta điều đó? Cái gì cung cấp tiêu chuẩn đầy đủ để ta có thể định lượng được bản chất của sự ở và công trình?
Đó là ngôn ngữ, ngôn ngữ đã nói cho chúng ta biết bản chất. Rõ ràng rằng, chúng ta rất coi trọng tính tự nhiên của ngôn ngữ. Khi tôi đang đề cập đến khía cạnh này, những lời nói, bài viết và phát thanh thông tin đang lan tỏa trên khắp địa cầu. Con người xem mình làm chủ và định hình ngôn ngữ, trong khi sự thật thì, ngôn ngữ giáo dưỡng con người. Có lẽ trước hết, sự phá hoại mối quan hệ thống trị này đã khiến con người trở nên xa lạ. Việc chúng ta vẫn quan tâm đến sự cẩn thận khi nói là điều tốt, nhưng điều đó không giúp ích gì cho chúng ta khi mà ngôn ngữ vẫn chỉ phục vụ chúng ta như một phương tiện biểu đạt, cao nhất và đầu tiên.
Vậy thì, Bauen – công trình nghĩa là gì? Trong tiếng Anh cổ và tiếng vùng thượng Đức, từ “buan” có nghĩa là cư trú, cụ thể hơn là: duy trì, sống tại một nơi. Nghĩa thực của động từ “bauen”, là cư trú, đã bị chúng ta lãng quên. Nhưng một chút vết tích của nó vẫn còn được giữ lại trong tiếng Đức – từ Nachbar có nghĩa là hàng xóm. Hàng xóm trong tiếng Anh cổ là “neahgehur”; “neah” – gần và “gebur” – người ở. “Nachbar” cùng nghĩa với “Nachgebur”, “the Nachgebauer”, nghĩa là “người ở gần”. Động từ “buri”, “büren”, “beuren”, “beuron”, tất cả đều mang nghĩa là sự ở , viên gạch, nơi để ở. Lúc này có thể chắc chắn rằng từ cổ “buan” không chỉ nói với chúng ta rằng “bauen” là xây để sẵn sàng cho việc cư trú, nó còn cung cấp một mối liên hệ với cách chúng ta suy nghĩ về định nghĩa của hoạt động ở. Khi chúng ta nói về sự ở, chúng ta thường nghĩ về một hoạt động diễn ra bên cạnh rất nhiều hoạt động khác. Chúng ta làm tại đây và cũng ở đây. Không chỉ cư trú đơn thuần – như vậy thì thật giống như chẳng làm gì – chúng ta làm việc, đi lại và nghỉ chân đâu đó, khi nơi này lúc nơi khác. Nguyên gốc thì “bauen” nghĩa là cư trú. Trong ngữ cảnh gốc, “bauen” diễn tả bản chất của việc ở đang ở cấp độ nào. “Bauen”, “buan”, “bhu”, “beo” đều là những phiên bản khác của từ “bin”: “ich bin” – tôi là, “du bist” – anh là, hình thức bắt buộc “bis” – “be”. Vậy “ich bin” nghĩa là gì? “Bin” thuộc trường nghĩa của từ “bauen”, nên “ich bin”, “du bist” cũng có nghĩa là “tôi ở”, “anh ở”. Định nghĩa con người là gì trên Trái Đất được gói gọn trong từ “baun” – nghĩa là cư trú. Là con người thì đồng nghĩa là “phàm nhân sống trên Trái Đất”, đó cũng có nghĩa là cư trú. Từ cổ “bauen” cũng có nghĩa là nuôi dưỡng và bảo vệ, giữ gìn và chăm sóc, đặc biệt là nó cũng gắn liền với hoạt động canh tác trên mặt đất, trồng nho. “Building” nghĩa là chăm lo đến sự phát triển đến khi chín muồi của hoa quả. Việc “xây dựng” chỉ cần “chăm sóc” - vun vén thứ khác phát triển để tự nó chín muồi thành quả.
Trong ngữ cảnh đó, chăm sóc và nuôi dưỡng, hoạt động xây dựng không tạo ra bất kỳ thứ gì. Bến tàu hay đền đài, theo một cách nào đó, mang nghĩa chức năng hoạt động. Ở đây “building” trái ngược với việc trồng trọt, mang nghĩa là xây dựng. Cả hai dạng nghĩa của từ “building” – trồng trọt, giống với tiếng Latin colere, cultura, và building mang nghĩa một tòa nhà mọc lên, aedificare – đều được bao hàm trong nghĩa gốc, đó là ở. “Building” cũng như cư trú, là giữ lại những trải nghiệm hàng ngày của con người, những thứ bắt đầu từ thói quen – chúng ta ở trong nó, mà nói một cách mĩ miều thì đó là Gewohnte. Với lý do này, từ “building” lùi lại rất nhiều tầng nghĩa so với từ “dwelling” đã đạt được. Những hoạt động trồng trọt và xây dựng khẳng định ý nghĩa của từ “bauen” – building, và cùng với câu chuyện về từ “building” thì điều đó càng được rõ ràng. Nghĩa thực của “bauen”, ấy là sự ở , đã rơi vào quên lãng.
Tưởng chừng không đáng kể, nhưng thực sự thì nội hàm ngữ nghĩa đã bị khỏa lấp. Cư trú không được và chưa bao giờ được xem như một đặc tính cơ bản của con người.
Nghĩa thật của từ “bauen” đã bị kéo lùi lại so với nghĩa gốc; trước những nghĩa thông dụng, nghĩa thật của từ dễ bị lãng quên. Khó lòng suy đoán được về ẩn ý của quá trình này. Tính đơn giản và cao siêu của câu nói dường như bị tách biệt. Nhưng không vì thế mà cách gọi ban đầu của nó trở thành sự bất khả; nó gần như rơi vào im lặng, dù con người thường cũng chìm theo lặng im này.
Nhưng nếu ta chú tâm những gì ngôn ngữ thể hiện trong từ “bauen” sẽ nhận ra ba điều:
- Building thực sự là cư trú.
- Cư trú là cách để tồn tại trên Trái Đất.
- Building có hai lớp nghĩa: hoạt động trồng trọt và việc làm mọc lên những công trình.
Nếu suy nghĩ về ba câu chuyện trên, chúng ta sẽ nhận được manh mối vấn đề: chừng nào không quan niệm rằng “mọi tòa nhà đều là nơi ở”, ta thậm chí không thể hỏi một cách đầy đủ, chứ đừng nói đến việc quyết định đúng đắn, “bản chất của tòa nhà là gì”. Chúng ta không sống trong những gì đã xây dựng lên, mà ngược lại việc xây và tiếp tục xây vì cần nơi để sống, vì chúng ta là những cư dân của nó. Nhưng bản chất của nhà ở gồm những gì? Thêm một lần nữa cần lắng nghe những gì ngôn ngữ nói. Tiếng Saxon cổ – wuon, tiếng Gothic – wunian đều tương đối giống với từ “bauen”, có nghĩa là duy trì, sống tại một nơi cố định. Nhưng “wunian” nói rõ hơn về sự duy trì đó như thế nào. Wunian có nghĩa là “sống trong bình yên, mang lại bình yên”. Về từ “bình yên”, Friede, có nghĩa là “tự do”, das Frye, và fry là “ngăn ngừa độc hại và hiểm nguy”. Free thực chất là “đang thừa thãi”. Để tự do thực sự thì phải có của để dành. Từ “để dành", tự thân nó đã bao hàm không chỉ trong câu chuyện chúng ta không làm tổn hại một ai đó khi chúng ta để dành. Sự để dành thực sự là một thứ gì đó tích cực và diễn ra khi chúng ta bỏ lại một thứ gì đó trong bản chất, khi ta phải. (Hành vi) sống tự giữ mình đích thực thực sự có tính tích cực và là khi chúng ta để cho điều gì đúng với bản chất của nó, khi chúng ta trả lại "tự nhiên" cho nó theo cách đặc biệt, khi chúng ta "giải phóng" nó theo nghĩa thực sự của từ này là đưa ta tới một sự giữ gìn hòa bình. Sống, để được bình an, có nghĩa là duy trì hòa bình trong phạm vi tự do canh giữ mỗi một thứ trong bản chất của nó. Những đặc tính cơ bản của sự ở chính là việc để dành và giữ gìn . Điều đó bao trùm toàn bộ khái niệm ở . Ta nhận ra điều này, khi nghĩ rằng bản chất con người nằm trong hoạt động ở và sâu hơn nữa, hoạt động ở theo nghĩa là sống như phàm nhân trên mặt đất.
Nhưng “trên mặt đất” cũng đồng thời là “dưới bầu trời”. Cả hai cũng có nghĩa là “tiếp tục tồn tại trước thần thánh” và bao gồm một “sự phụ thuộc vào hành vi của con người với kẻ khác”. Bằng một sự hợp nhất nguyên thủy của bộ tứ - trời và đất, thần thánh và phàm tục – hợp lại với nhau làm một.

Mặt đất đỡ đầu, cưu mang. Trên đó, hoa nở, quả chín, đất đá và nước trải khắp bề mặt, muôn thú và vạn vật sinh sôi. Khi nhắc đến mặt đất thì chúng ta cũng đang nghĩ về ba thứ còn lại, nhưng không nghĩ đến sự hợp nhất đơn thuần của cả bốn.
Bầu trời là đường chuyển động thành vòm của mặt trời, chu trình thay đổi, mặt trăng, ngôi sao, những mùa trong năm và biến động của chúng, ánh sáng và hoàng hôn trong ngày, bóng tối và vầng sáng ban đêm, sự khoan thai và hừng hực của tiết trời, mây trôi và nền trời xanh sâu thẳm. Khi nhắc đến bầu trời thì chúng ta cũng đang nghĩ về ba thứ còn lại, nhưng không nghĩ đến sự hợp nhất đơn thuần của cả bốn.
Thánh thần là sứ giả của Chúa trời. Ngoài sự thống trị của Chúa, thần linh hiện diện hoặc rút vào nương náu. Khi nhắc đến thần thánh thì chúng ta cũng đang nghĩ về ba thứ còn lại, nhưng không nghĩ đến sự hợp nhất đơn thuần của cả bốn.
Những gì phàm trần là con người. Gọi là phàm trần vì con người có thể chết. Chết có nghĩa là có khả năng chết như cái chết. Chỉ có con người chết đi, liên tục, miễn là vẫn còn trên trái đất, dưới bầu trời, trước sự thần thánh. Khi nhắc đến xác chết thì chúng ta cũng đang nghĩ về ba thứ còn lại, nhưng không nghĩ đến sự hợp nhất đơn thuần của cả bốn.
Sự hợp nhất của cả bốn, chúng ta gọi là “bộ tứ”. Phàm trần nằm trong “bộ tứ” là nhờ vào hoạt động cư trú. Nhưng tính chất cơ bản của hoạt động cư trú là để dành, là duy trì. Nhờ bản chất thiết yếu, tính phàm tục duy trì vị thế trong “bộ tứ”. Theo đó, việc duy trì cư trú đó chính là “bộ tứ”.
Con người trần tục cư ngụ ở chỗ họ bảo vệ mặt đất, từ ngữ theo cách hiểu cũ mà người ta vẫn biết đến là giảm đi . Bảo vệ không chỉ có nghĩa là cứu một thứ gì đó khỏi nguy hiểm. Nghĩa gốc là để sự vật tự do trong sự hiện diện của nó. Bảo vệ mặt đất không chỉ là khai phá hay thậm chí là tận diệt nó, cũng không phải là làm chủ hay chinh phục nó. Đó chỉ đơn thuần là một bước phát sinh.
Con người trần tục sống ở nơi họ tiếp nhận bầu trời như một khái niệm trong bộ tứ. Họ thực hiện cuộc hành trình trên nhật nguyệt, chu du tới các vì sao, phước lành và hoạn nạn qua các mùa; họ không biến ban đêm thành ban ngày hay ban ngày thành một tình trạng bất ổn.
Con người trần tục sống theo cách trông chờ vào thần linh như một yếu tố trong bộ tứ. Họ trông chờ thần linh trong vô vọng. Họ trông chờ sự hiện diện hăm hở của mình và không lầm lẫn các dấu hiệu vắng mặt. Chúng không lập nên thượng đế hay thần tượng ai khác. Trong sâu thẳm bất hạnh, chúng trông chờ hạnh phúc đã lùi ra.
Con người trần tục theo cách họ khởi động bản năng của mình – khả năng chết như chết – vào cách sử dụng và thực hành khả năng này, vậy nên có thể là một cái chết tốt. Để kích hoạt bản năng chết của xác chết không có nghĩa là gây chết cho nó, như bỏ trống hư không, mục đích. Nó cũng không có nghĩa là sống trong bóng tối mà mịt mù về phía cuối đường.
Giữ lấy mặt đất, tiếp lấy bầu trời, trông chờ thánh thần, bắt đầu phàm tục, sự ở diễn ra khi bộ tứ đầy đủ. Để dành và giữ gìn có nghĩa là đặt dưới sự quan tâm của chúng ta, trong chờ sự hiện diện của bộ tứ. Những gì chúng ta đặt dưới sự quan tâm của mình đều phải được giữ an toàn. Nhưng nếu sự ở duy trì bộ tứ, thì nó giữ bản chất của bộ tứ ở đâu? Làm thế nào để người đời duy trì nơi cư trú của mình? Người ta sẽ chẳng thể có khả năng ấy nếu hoạt động ở chỉ đơn thuần là sống giữa trời đất này, trước thần linh và giữa đám đông người trần mắt thịt. Hơn thế, hoạt động ở luôn gắn với nhiều thứ khác. Hoạt động ở , là sự duy trì, giữ lại bốn thứ trong bộ tứ, cùng với một loạt những sự vật sự việc khác.
Dù vậy, sống cùng những thứ khác không chỉ thuần túy là ghép chúng vào bộ tứ như một yếu tố thứ năm. Ngược lại: chung sống chỉ là cách bộ tứ cư ngụ trong nhau ở bất kì thời điểm nào theo một cách thống nhất. Bộ tứ hiện hữu trong từng sự vật sự việc trong hoạt động ở. Nhưng những thứ gắn liền với bộ tứ chỉ khi chúng là được là tự thân của mình trong sự hiện diện. Việc đó diễn ra thế nào? Theo cách này, người đời nuôi dưỡng và vui đắp cho cho những điều đó phát triển, và đặc biệt, họ xây nên những thứ không-thể-lớn-thêm. Hoạt động trồng trọt và xây dựng mang nghĩa hẹp hơn. Sự ở, hơn cả việc gìn giữ hay đem bộ tứ chuyển hóa vào vạn vật, giống như việc duy trì này, là một công trình. Luận điểm này sẽ dẫn chúng ta đến câu hỏi thứ hai.
II
....