The hidden dimension

Chiều kích ẩn của không gian

13. NHỮNG THÀNH PHỐ VÀ NỀN VĂN HÓA

Sự bùng nổ dân số trong những thành phố ở khắp nơi trên thế giới đang tạo ra một chuỗi “vùng trũng hành vi” gây chết chóc nhiều hơn cả bom hydro. Con người đối mặt với một chuỗi phản ứng và hoàn toàn không có kiến thức về cấu trúc của những “nguyên tử văn hóa” sản sinh ra nó. Nếu những tập tính về động vật (khi chúng tụ tập hoặc di chuyển tới một vùng sinh cảnh không quen thuộc) đều tương ứng với con người thì chúng ta hiện nay đang đối mặt với những hậu quả khủng khiếp của những “vùng trũng đô thị”. Những nghiên cứu về tập quán và không gian giao tiếp ở mức độ tương ứng sẽ cảnh báo cho ta những nguy hiểm trước mắt khi dân cư nông thôn đổ dồn vào trung tâm thành phố. Sự điều chỉnh cho nhóm người đó không chỉ vì vấn đề kinh tế mà còn gắn với toàn bộ cách sống . Cách xử trí với những hệ thống giao tiếp xa lạ trở nên phức tạp hơn, những không gian không đồng nhất và bệnh lý song hành cùng một “khối ung nhọt hành vi” đang sưng tấy lên.

Tầng lớp người da đen nghèo khổ ở Hoa Kỳ đặt ra những vấn đề rất nghiêm trọng (cho nhà chức trách) trong việc điều chỉnh cuộc sống thị dân của họ, những vấn đề mà nếu không được giải quyết ổn thỏa thì chúng sẽ hủy hoại chúng ta bằng cách làm cho những thành phố không thể ở được. Một thực tế hiển nhiên thường bị bỏ qua là người da đen ở đáy xã hội và người da trắng trung lưu có rất nhiều khác biệt văn hóa. Xét trên nhiều phương diện, tình cảnh của người da đen ở Mỹ giống với thổ dân da đỏ. Các nhóm thiểu số này với nền văn hóa đại chúng khác nhau từ những giá trị cốt lõi như cách tạo dựng và sử dụng không gian, thời gian và vật chất, tất cả đã manh nha trong mỗi người từ khi còn tấm bé. Cho tới nay, những nhà hoạt động nhân quyền gốc da màu nói rằng không một người da trắng nào có thể hiểu người da đen. Họ đúng nếu đang đề cập tới văn hóa người da đen. Song, có vài người hiểu được rằng những khác biệt văn hóa – kiểu mà nhiều người da đen phải trải qua như một sự cô lập, trong khi nó ngày càng trầm trọng hơn vì định kiến. Những khác biệt nằm sâu thẳm bên con người, xuất phát từ địa vị của họ và song hành trong suốt cuộc đời họ.

Một điểm mà tôi muốn nhấn mạnh là trong những thành phố chính của Hoa Kỳ, con người của những nền văn hóa cực-kì-khác-nhau hiện nay đang tương tác với nhau trong một tình trạng tập trung cao độ đầy nguy hiểm, nó gợi nhớ lại một nghiên cứu của nhà bệnh lý học Charles Southwick. Southwick đã khám phá ra rằng chuột peromyscus có thể chịu được mật độ cao trong lồng cho tới khi giống chuột lạ được đưa vào. Không chỉ gia tăng xung đột một cách đáng kể mà còn gia tăng về khối lượng của tuyến thượng thận cũng như số lượng bạch cầu trong máu (tất cả đều là biểu hiện của căng thẳng). Ngày nay, dù cho mọi định kiến và sự buộc tội cùng một quá-khứ-tủi-nhục có thể được xóa bỏ, song người da đen nghèo ở các thành phố Mỹ sẽ vẫn phải đối mặt với một hội chứng đang căng thẳng tới mức cùng cực: vùng trũng (thường được nhắc đến với cái tên “the jungle” – rừng rậm), những khác biệt văn hóa lớn tồn tại giữa người da đen và người da trắng trung lưu ở Mỹ đang chồi lên, cùng với một sinh cảnh hoàn toàn xa lạ.

Những nhà xã hội học Glazer và Moynihan trong cuốn sách đầy hấp dẫn của họ “Beyond the Melting Pot” đã chứng minh rõ ràng rằng: thực tế không có melting pot [cái chậu hòa quyện] nào ở những thành phố của Mỹ. Nghiên cứu của họ tập trung vào New York nhưng những kết luận có thể áp dụng cho nhiều thành phố khác. Những nhóm sắc tộc chính trong các thành phố ở Mỹ duy trì những bản sắc riêng biệt qua nhiều thế hệ. Nhưng những chương trình nhà ở và quy hoạch thành phố hiếm khi quan tâm tới những khác biệt sắc tộc này. Thậm chí khi đang viết chương này, tôi được đề nghị tư vấn cho một sở quy hoạch đang nghiên cứu cuộc sống đô thị vào năm 1980. Toàn bộ bản quy hoạch sau khi bàn luận dựa trên sự hiện diện đầy đủ của tất cả những khác biệt về mặt sắc tộc cũng như giai cấp vào thời điểm đó. Không có tiền lệ nào chỉ cho tôi rằng những khác biệt đó sẽ biến mất trong một thế hệ!

NHU CẦU KIỂM SOÁT

Lewis Mumford khẳng định rằng căn nguyên của bộ luật Hammurabi Bộ luật Hammurabi là một trong những đạo luật đầu tiên được ghi lại trong lịch sử. Hammurabi là vua đầu tiên của Đế quốc Babylon. Ở thời hiện đại, Hammurabi được biết đến như một nhà làm luật thời cổ đại, bức chân dung của ông được treo ở rất nhiều tòa nhà công quyền trên thế giới. là để chống lại sự vô lề lối của những người đổ xô vào những thành phố sơ khai vùng Lưỡng Hà. Từ đó, một bài giảng được mang tới từng gia đình, lặp đi lặp lại nhiều lần – bài giảng về mối quan hệ của con người với thành phố – là nhu cầu cần những đạo luật bắt buộc thay thế cho tập tục bộ lạc. Những luật lệ và các cơ quan thực thi pháp luật hiện diện ở các thành phố trên toàn thế giới, nhưng một số lần họ nhận ra những khó khăn khi ứng phó với những vấn đề đang đối diện với họ và họ cần sự giúp đỡ. Một sự trợ giúp luật pháp và trật tự mà không phải sử dụng khoảng giãn cách tối đa có thể là sức mạnh của phong tục và ý kiến công chúng trong các vùng dân tộc. Những vùng này thực hiện nhiều mục đích hữu ích; một trong những điều quan trọng nhất là chúng hoạt động như những khu vực tiếp nhận suốt đời, trong đó thế hệ thứ hai có thể học cách chuyển đổi sang cuộc sống thành thị. Vấn đề chính của thành phố ngày nay là quỹ đất của nó bị giới hạn. Khi số thành viên tăng lên ở một cấp độ lớn hơn khả năng biến dân cư nông thôn trở thành cư dân thành phố (đó là số di chuyển ra khỏi khu vực), chỉ còn hai lựa chọn: tăng trưởng lãnh thổ hoặc quá tải số lượng.

Nếu vùng đất không thể mở rộng và thất bại trong việc duy trì một mật độ lành mạnh (mật độ này sẽ thay đổi tùy theo mỗi nhóm sắc tộc) thì một vùng trũng sẽ phát triển. Khả năng thông thường của các cơ quan thực thi luật pháp không thể đối phó với những vùng trũng. Điều này được minh họa bởi sự việc xảy ra tại Thành phố New York với những cư dân da đen và cư dân gốc Puerto Rico. Theo một tờ báo “Time” gần đây thông báo, 232 000 người bị gói gọn trong ba dặm rưỡi vuông [tương đương với 25604 người/km2] ở khu Harlem. Giải pháp để tránh cho vùng trũng phát triển và hủy hoại thành phố: đưa ra những đặc điểm thiết kế chống lại một loạt các hiệu ứng vùng trũng nhưng sẽ phá hủy vùng đất trong quá trình phát triển . Ở động vật, giải pháp này đủ đơn giản và đáng sợ như những gì chúng ta thấy trong các chương trình tái thiết cũng như mở rộng đô thị. Để tăng mật độ trong một quần thể chuột và duy trì sức khỏe những mẫu vật, đặt chúng vào trong các hộp sao cho chúng không nhìn thấy nhau, dọn dẹp các lồng của chúng và cho ăn đầy đủ. Bạn có thể chồng mấy cái hộp lên nhiều tầng nếu muốn. Thật không may, những con vật bị nhốt lồng trở nên ngu độn, đó là cái giá rất đắt phải trả cho một hệ thống sắp xếp! Câu hỏi chúng ta phải tự đặt ra cho chính mình là “Để sắp đặt con người, chúng ta có thể đi bao xa trên con đường của thiếu thốn cảm nhận giác quan?” Vì thế, một trong những nhu cầu cấp bách của loài người là những nguyên lý thiết kế không gian nhằm duy trì một mật độ lành mạnh, một tỉ lệ tương tác lành mạnh, một số lượng ràng buộc hợp lý, và bản sắc được tiếp nối. Để tạo ra những nguyên tắc chung nhất sẽ cần nỗ lực tổng hợp của nhiều chuyên gia đa ngành, tất cả cùng làm việc trên một phạm vi rộng lớn.

Quan điểm này được dấy lên vào năm 1964 tại hội nghị Delos lần hai. Được tổ chức bởi kiến trúc sư, nhà quy hoạch đô thị và cũng là nhà xây dựng người Hi Lạp C. A. Doxiadis, hội nghị Delos thường niên tập hợp một đội ngũ ấn tượng các chuyên gia trên toàn thế giới, những người có nhiều kiến thức và kĩ năng có thể đóng góp thích hợp cho nghiên cứu về thứ mà Doxiadis gọi là ekistics (nghiên cứu về chỗ ở) . Những kết luận đạt được bởi nhóm này là:

  1. Những chương trình “New Town” ở cả Anh lẫn Israel đều dựa trên dữ liệu thiếu và đã cũ. Những thị trấn quá nhỏ, nhưng ngay cả kích cỡ lớn hơn mà các quy hoạch gia người Anh đặt ra hiện nay cũng dựa trên việc nghiên cứu hạn chế.
  2. Mặc dù công chúng nhận thức được tình trạng tuyệt vọng của những đô thị phát triển, song không có giải pháp nào được hiện thực hoá cho tình trạng đó.
  3. Sự gia tăng thảm khốc của cả dân số lẫn số lượng ô tô đang tạo ra một tình trạng hỗn loạn mà ở đó không có những đặc tính tự-vá-lỗi. Hoặc là những chiếc ô tô xe đọng tại trung tâm thành phố vì những tuyến cao tốc (dẫn tới hiệu ứng nghẹt thở ở London và New York City), hoặc là thành phố tìm đường để những chiếc xe biến mất trong một ma trận xa lộ, như trường hợp của Los Angeles.
  4. Để duy trì tăng trưởng kinh tế, một vài hoạt động sẽ khích lệ một lượng lớn các ngành công nghiệp, dịch vụ, và những khả năng như tái xây dựng những thành phố trên thế giới.
  5. Quy hoạch, giáo dục và nghiên cứu về chỗ ở không chỉ cần kết hợp và bảo đảm (ở mức bình ổn) mà còn cần được nâng lên tầm cao mới trong ưu tiên của các nhà chức trách.

TÂM LÝ HỌC VÀ KIẾN TRÚC

Để giải quyết những vấn đề đô thị ghê gớm, nhu cầu về các chuyên gia không chỉ là những đội ngũ mà ta thường thấy – các nhà quy hoạch đô thị, kiến trúc sư, kĩ sư các bộ môn, chuyên gia kinh tế, chuyên gia hành pháp, chuyên gia giao thông vận tải, nhà giáo dục, luật sư, nhà hoạt động xã hội và nhà khoa học về chính trị – mà còn bao gồm một số chuyên gia mới. Những nhà tâm lý học, nhân chủng học và tập quán học, họ hiếm khi (nếu đã từng có) nổi trội như những thành viên lâu năm của những ban ngành quy hoạch thành phố. Những ngân sách cho nghiên cứu không được “nâng lên đặt xuống” như đã từng xảy ra trong quá khứ. Khi các dự án quy hoạch tốt được phát triển, những nhà quy hoạch không hề bị ép buộc phải chứng minh một kết quả đổ vỡ trong quá trình thực thi, việc này thường được châm trước trên sân của chính trị hay phát triển bền vững. Hoạt động quy hoạch và tái thiết cũng không được tách rời nhau; thay vào đó, tái thiết phải là một phần trong quy hoạch.

Hãy xem ví dụ về nhà ở công được xây dựng cho những nhóm thu nhập thấp tại Chicago – hoạt động đó khơi khơi lên rồi mất tăm, không giải quyết được vấn đề căn bản. Một điều đã hằn sâu vào trong suy nghĩ là dân cư thu nhập thấp đổ dồn vào Chicago và nhiều thành phố ở Mỹ khác, phần lớn là người da đen tới từ các vùng nông thôn hoặc thị trấn nhỏ niềm Nam. Hầu hết họ không có truyền thống hay kinh nghiệm gì trong đời sống thị dân. Từng hàng từng dãy chung cư cao tầng trông bớt thảm hại hơn mấy khu ổ chuột, nhưng sự phiền toái trong cuộc sống thì nhiều hơn những thứ mà nó đã thay thế. Những người da đen thực tế đã thẳng thắn lên án nhà ở cao tầng. Tất cả họ đều thấy trong đó là ưu thế da trắng, một biểu tượng thất bại trong những quan hệ dân tộc. Họ đùa về cách người da trắng ngày nay đang chồng người da đen lên đầu nhau, nhét họ vào những tầng nhà cao. Nhà cao tầng thất bại trong việc giải quyết nhiều vấn đề con người cơ bản. Như một người thuê nhà miêu tả tòa nhà của anh ta cho tôi: “Không có chỗ nào cho gia đình. Người mẹ không thể nhìn ra lũ trẻ nếu chúng ở sân chơi phía dưới mười lăm tầng nhà. Chúng bị những tên côn đồ đánh đập, những thang máy thì không an toàn và bẩn thỉu (người ta sử dụng chúng như toa lét, như để khiêu khích lại những tòa nhà), chúng chậm chạp và hỏng hóc. Khi tôi muốn về nhà, tôi phải đắn đo gấp đôi vì việc đi thang máy sẽ mất của tôi nửa giờ. Anh đã từng phải leo mười lăm tầng nhà khi thang máy hỏng chưa? Anh không làm việc đó thường xuyên. . .”

Vui thay, một vài kiến trúc sư đang bắt đầu nghĩ về mô hình phát triển nhà hai-tầng, ba-tầng, bốn-tầng được thiết kế hướng tới sự an toàn cho con người. Dù vậy, có một chút dữ liệu trong những loại không gian phù hợp nhất với người da đen. Kinh nghiệm thu được từ Chiến tranh thế giới thứ hai của chính tôi khi phục vụ trong trung đoàn hậu cần cùng với một kĩ sư da đen. Trung đoàn đóng tại Texas, liên quân với năm nước châu Âu. Thực sự thì điều này không xảy ra cho tới khi chúng tôi tới Philippin, nơi mà người ta tìm nhận thấy một cuộc sống trên một quy mô phù hợp với họ. Họ có thể dễ dàng nhận thấy mình thích nghi với xã hội và kinh tế Philippin, nơi một người có thể bắt đầu chuyện kinh doanh trong một cửa tiệm bằng tre không lớn hơn hai trạm điện thoại. Khu chợ mở (open market) cùng tất cả những hoạt động của nó dường như thích hợp với nhu cầu không gian giao tiếp của người da đen hơn là những cửa hàng đông đúc bốn mặt là tường và cửa sổ.

Nói cách khác, tôi nghĩ rằng quy mô là yếu tố then chốt trong quy hoạch các khu phố, các tiểu khu và những kế hoạch phát triển nhà ở. Quan trọng nhất, quy mô đô thị phải phù hợp với quy mô sắc tộc, vì mỗi nhóm sắc tộc dường như phát triển trên quy mô của riêng nó.

Ngoài ra có những khác biệt giai cấp, được báo cáo trong nghiên cứu của nhà tâm lý học Marc Fried và các nhà xã hội học Herbert Gans, Peggy Gleicher và Chester Hartman, trong một loạt những ấn bản quan trọng tại West End, Boston.

Những kế hoạch xóa sạch khu ổ chuột và tái thiết đô thị của Boston bỏ mặc câu chuyện rằng những khu ở của tầng lớp lao động tương đối khác so với tầng lớp trung lưu. Những cư dân West End gắn bó khăng khít với nhau; với họ, những hành lang, cửa hàng, nhà thờ và thậm chí cả đường phố đóng góp những phần thiết yếu của cuộc sống, gắn kết họ trong một cộng đồng. Như Hartman chỉ ra, trong việc tính toán mật độ dân số tại khu West End, thực sự có những thời điểm không gian sống khả dụng hơn trông thấy khi được đánh giá theo những tiêu chuẩn trung lưu, chỉ dựa trên đơn vị cư trú. Một điểm mới được bổ sung là “urban village” – làng trong phố (khái niệm của Gan). Khu West End ở Boston là một “cỗ máy” biến dân quê nhập cư trở thành thị dân, một quá trình cần tới ba thế hệ. Nếu nó cần được “làm mới”, thì một giải pháp thỏa mãn hơn sẽ là cải tạo, thay vì phá bỏ toàn bộ khu, nơi không chỉ bao gồm các tòa nhà mà còn có những hệ thống xã hội. Khi tái thiết đô thị buộc phải phá bỏ để hiện đại hơn song ít những không gian tích hợp hơn thì một lượng đáng kể người Ý trở nên suy sụp và rõ ràng họ mất đi nhiều niềm vui trong cuộc sống. Thế giới của họ tan vỡ, không phải thông qua dã tâm hay thiết kế mà với những ý định tốt nhất, vì những lời của Fried: “. . . nhà chỉ đơn thuần là một căn hộ hay một ngôi nhà, nhưng là một khu vực địa phương, trong đó có một vài khía cạnh ý nghĩa nhất của cuộc sống mà con người trải qua.” Mối quan hệ của cư dân West End với ngôi làng đô thị của họ được thêm vào tất cả những thứ khác ở một quy mô. Con phố vừa quen thuộc, vừa thân mật.

Ngôi làng đô thị Westend ở Boston trước khi tái thiết

Trong khi người ta rất ít biết đến thứ gì đó trừu tượng như kiểu quy mô, tôi cho rằng nó thể hiện một phương diện trong yêu cầu của con người rằng họ sẽ hiểu được tối đa về những ảnh hưởng trực tiếp của nó lên quyết sách hình thành mật độ dân số hợp lý. Ngoài ra, những tiêu chuẩn thiết lập cho mật độ dân số đô thị “lành mạnh” khó gấp đôi vì các quy luật cơ bản cho việc ước tính kích cỡ đơn vị ở phù hợp cho một gia đình không được ai biết đến. Trong một vài năm, kích cỡ của những không gian ở đi theo một lộ trình không-được-quan-tâm-thích-đáng, từ vừa đủ tới hoàn toàn thiếu hụt, vì kinh tế và những áp lực gia tăng khác. Không chỉ người nghèo mà ngay cả người khá giả cũng thấy mình bị ép buộc bởi những nhà xây dựng đầu cơ nhà cao tầng, những người cấu bớt 6 inch ở chỗ này rồi 1 feet ở chỗ kia để giảm giá thành và tăng lợi nhuận. Không một đơn vị độc lập nào có thể được xem xét ngoài bối cảnh. Một căn hộ vừa đủ trở thành không thể ở được (với một số người) đúng lúc một tòa chung cư mọc lên bên cạnh chắn hết tầm nhìn.

BỆNH LÝ VÀ SỰ QUÁ TẢI

Giống như ung thư và khói thuốc, người ta không trải qua những hiệu ứng tích tụ của tình trạng đông đúc cho tới khi sự phá hủy hoàn tất. Hơn nữa, hầu hết những gì được biết về khía cạnh con người trong các thành phố là những sự thật trần trụi của tội phạm, bất hợp pháp, vô giáo dục và bệnh tật; nhu cầu khẩn thiết của chúng ta ở thời điểm hiện tại là cần có nghiên cứu giàu tưởng tượng trên một quy mô rộng lớn. Mặc dù có nhiều nghiên cứu về cuộc sống đô thị sẽ chứng minh được tính hợp lý khi mối quan hệ giữa vùng trũng đô thị và bệnh lý của con người được thừa nhận, tôi biết chỉ có nó mới liên hệ trực tiếp với những hệ quả thiếu hụt không gian. Nghiên cứu này được hoàn thành bởi Chombart de Lauwes, một cặp vợ chồng người Pháp, họ kết hợp những kĩ năng về xã hội học và tâm lý học. Họ cung cấp một vài dữ liệu cố định đầu tiên về những hệ quả của tình trạng đông đúc trong nhà ở đô thị. Với sự tinh tế điển hình kiểu Pháp, Chombart de Lauwes đã thu thập dữ liệu đo được về mọi khía cạnh có thể tưởng tượng được của cuộc sống gia đình công nhân Pháp. Ban đầu, họ ghi chép và tính toán sự đông đúc bằng số lượng cư dân trên đơn vị cư trú. Chỉ số này gợi mở một chút ít, rồi Chombart de Lauwes đã quyết định sử dụng một chỉ số mới để xác định trạng thái đông đúc – số mét vuông trên đầu người. Những kết quả của chỉ số này gây sững sờ; khi không gian khả dụng dưới mức 8 tới 10 m2 một người thì những bệnh lý trên cơ thể và của xã hội tăng gấp đôi! Dịch bệnh, tội phạm và trạng thái đông đúc chắc chắn là liên quan đến nhau. Khi không gian khả dụng trên 14 m2 một người, tỉ lệ bệnh lý các loại cũng tăng nhưng không quá mạnh. Chorbart de Lauwes cũng không giải thích được những số liệu sau này để nói rằng những gia đình loại hai thường di động lên trên và có xu hướng dành nhiều sự chú ý hơn để tiến lên hơn là họ đã làm với con cái của họ. Một ghi chú về sự thận trọng được đưa ra ở đây. Không có gì là thần kì ở một không gian 10 đến 13 m2. Con số này chỉ có thể áp dụng với một bộ phận hạn chế của dân cư Pháp vào một thời điểm cụ thể, nó không thể chứng minh sự thích hợp với bất kì quần cư nào khác. Để tính toán tình trạng đông đúc cho những nhóm sắc tộc khác nhau, cần quay lại phần diễn giải về các giác quan trong những chương trước.

Mức độ gắn kết cảm giác và cách con người sử dụng thời gian không chỉ xác định những điểm mà họ bắt đầu “chen chúc”, mà còn là những phương pháp cho việc giảm thiểu đông đúc. Người Puerto Rico và người da đen có mức độ gắn kết cao hơn người New England, người Mỹ gốc Đức và Scandinavi. Những người gắn-bó-khăng-khít rõ ràng cần những mật độ cao hơn, và họ có thể cần nhiều sự bảo vệ hoặc che chắn từng bên ngoài. Thật vô cùng quan trọng khi chúng ta hiểu nhiều hơn về cách tính toán mật độ tối đa, tối thiểu và tối ưu của những vùng miền văn hóa khác nhau tạo nên những thành phố.

THỜI GIAN ĐƠN NHIỆM VÀ ĐA NHIỆM

Thời gian và cách nó được sử dụng tạo ra rất nhiều thứ để làm với việc cấu trúc không gian. Trong cuốn “The Silent Language”, tôi đã diễn giải hai phương cách đối lập nhau trong việc sử dụng thời gian: đơn nhiệm và đa nhiệm. Đơn nhiệm là đặc tính của của những người bị ràng buộc ở mức thấp, những người phân chia thời gian; họ lên lịch một việc vào một thời điểm và trở nên mất định hướng nếu phải xử lý nhiều việc thứ cùng lúc. Những người đa nhiệm, có thể bởi họ gắn kết nhiều hơn với nhau, có xu hướng duy trì vài hoạt động diễn ra cùng một lúc như những kẻ tung hứng. Thế nên, những người đơn nhiệm thường thấy dễ dàng hơn khi có thể phân chia các hoạt động trong không gian, trong khi những người đa nhiệm có xu hướng gom các hoạt động lại. Dù vậy, nếu hai loại người này tương tác lẫn nhau, nhiều khó khăn gặp phải có thể vượt qua với cấu trúc hợp lý của không gian. Chẳng hạn, những người Bắc Âu (đơn nhiệm) nhận thấy họ gần như không thể chịu được những sự gián đoạn liên tục của những người Nam Âu (đa nhiệm), như thể chưa có thứ gì được xong. Vì tính trật tự không quan trọng với người Nam Âu nên khách hàng “bon chen” nhất vẫn được phục vụ đầu tiên, dù anh ta có thể là kẻ vào cuối cùng.

Để giảm thiểu hiệu ứng đa nhiệm, người ta phải giảm thiểu mối gắn kết, có nghĩa là phân chia các hoạt động với càng nhiều màng ngăn càng tốt. Mặt khác, người đơn nhiệm phục vụ những khách hàng đa nhiệm phải giảm thiểu hoặc loại bỏ ngăn cách vật lý, qua đó con người có thể tương tác. Đó thường là tương tác vật lý. Với người làm kinh doanh phục vụ người Mỹ La tinh, thành công của chiếc ghế dài (đối lập với cái bàn) là một ví dụ về thứ mà tôi nhắc đến. Chúng tôi chưa áp dụng dù là những nguyên lý đơn giản như vậy lên bản quy hoạch không gian đô thị. Người Naple đa nhiệm xây dựng và sử dụng Galeria Umberto không gian có mái vòm kính giữa các công trình, tựa như phố đi bộ trong nhà, bắt nguồn từ miền bắc nước Ý , nơi mà mọi người có thể vào cùng nhau. Plaza của người Tây Ban Nha và piazza của người Ý phục vụ cả hai chức năng gắn kết và đa nhiệm, trong khi phố chăng dây Main Street đậm chất Mỹ không chỉ phản ánh cách cấu trúc thời gian mà còn thể hiện sự thiếu gắn kết của chúng ta. Bởi lẽ những thành phố lớn của ta ngày nay tổng hợp những thành phần nổi bật của tất thảy các dạng kể trên, nên sẽ sinh ra tác dụng phụ trong những mối quan hệ giữa hai nhóm nếu tất cả các loại không gian được bày ra.

Galleria Umberto ở Napoli, Ý

Người quy hoạch thành phố nên tiến xa hơn trong việc tạo ra những không gian đồng nhất, điều đó sẽ khuyến khích và thúc đẩy vùng miền văn hóa. Việc này sẽ phục vụ hai mục tiêu: thứ nhất, nó sẽ hỗ trợ thành phố và vùng trong quá trình chuyển đổi diễn ra từ thế hệ này sang thế hệ khác khi người dân quê chuyển thành thị dân; và thứ hai, nó sẽ thúc đẩy những kiểm soát xã hội chống lại sự vô luật lệ. Như hiện nay, chúng ta đã và đang tạo ra sự vô luật lệ trong các vùng văn hóa, bằng việc để chúng biến thành vùng trũng. Theo lời của Barbara Ward, chúng ta phải tìm cách làm cho "khu ổ chuột" trở nên đáng trân trọng. Điều này không chỉ có nghĩa là chúng sẽ an toàn, mà mọi người có thể chuyển vào khi vùng đất đã thực hiện các chức năng của nó.

Trong quá trình quy hoạch những thành phố mới và đổi mới những đô thị cổ, chúng ta có thể phải tích cực xem xét việc tăng cường nhu cầu liên tiếp của con người thuộc một tiểu khu lâu đời, nơi mà anh ta được mọi người biết đến. Họ cần một nơi mà người ta có cảm giác trách nhiệm với nhau. Ngoài nhóm sắc tộc ra, hầu như mọi thứ về những thành phố Mỹ ngày nay đều là sociofugal [ngăn chia] và định hướng con người, làm họ xa lánh xung quanh. Những ví dụ gây sốc vừa qua về những người bị đánh đập hay thậm chí là bị giết, trong khi “những hàng xóm” của họ khóa cửa và cũng không nghe máy, đã chỉ ra khoảng cách mà sự xa lánh này tạo ra.

HỘI CHỨNG Ô TÔ

Chúng ta chạm tới trạng thái sợ hãi ra sao? Trực giác mách bảo rằng, có nhiều lời giải thích trong việc bổ sung thiết kế, sắp đặt những tòa nhà và các không gian. Dù vậy, có một sản phẩm kĩ thuật nhân tạo xây nên nền văn hóa của chúng ta. Nó đã thay thế hoàn toàn cách sống dựa trên những gì chúng ta hoàn toàn phụ thuộc vào, hòng thỏa mãn các nhu cầu, mà thật khó có thể hình dung được chúng ta đã từng từ bỏ nó. Thứ mà tôi đang nhắc đến đương nhiên ô tô. Đó là kẻ tiêu thụ không gian cá thể và không gian công cộng nhiều nhất mà con người từng tạo ra. Ở Los Angeles, nơi được mệnh danh thiên đường xe hơi, Barbara Ward đã nhận thấy rằng 60% đến 70% không gian là dành cho ô tô (đường phố, chỗ đỗ xe và cao tốc). Xe cộ ngốn hết không gian mọi người gặp nhau. Bãi đỗ, vỉa hè, tất cả mọi thứ thuộc về ô tô.

Có những hệ quả bổ sung của hội chứng này cũng đáng được xem xét. Người ta chẳng còn muốn đi bộ, mà dẫu có muốn thì cũng không thể tìm được chỗ để đi bộ. Điều này làm cho mọi người yếu đi và tách họ ra khỏi nhau. Khi đi bộ, người ta quen biết nhau chỉ bằng ánh mắt. Với ô tô thì ngược lại. Bụi bẩn, tiếng ồn, khí thải, xe ô tô đậu la liệt đã làm cho không khí ngoài trời ở đô thị trở nên quá khó chịu. Ngoài ra, hầu hết các chuyên gia đều đồng thuận rằng các cơ bắp bị nhão và tình trạng giảm lưu thông máu đến từ việc thiếu tập thể dục đều đặn khiến con người dễ bị đau tim hơn.

Không có sự bất tương thích cố hữu nào giữa con người và ô tô trong bối cảnh đô thị. Tất cả nằm ở việc quy hoạch phù hợp và những đặc điểm thiết kế bên trong phân tách được ô tô ra khỏi con người, một điểm được nhấn mạnh trong cuốn “The Heart of Our Cities” của kiến trúc sư Victor Gruen. Cũng có muôn vàn các ví dụ về cách thực hiện điều này bằng kế hoạch đầy tham vọng.

Paris được biết đến như một thành phố nơi không gian ngoài trời hấp dẫn con người, nơi không chỉ đáp ứng mà còn làm thỏa mãn từng bước chân, hơi thở. Vỉa hè dọc theo đại lộ Champs-Elysees tạo nên một cảm giác thênh thang tuyệt vời cùng với cách biệt hàng trăm feet với đường giao thông. Đáng chú ý là những ngõ ngách thì quá chật để cho xe cộ đi vào, chúng không chỉ mang tới sự đa dạng mà còn giống như một lời gợi nhắc liên tục rằng: Paris là dành cho mọi người. Venice, không còn nghi ngờ gì nữa, là một trong những thành phố đáp ứng tuyệt vời nhất trên thế giới, với sức hấp dẫn gần như là phổ quát. Những đặc điểm nổi bật nhất của Venice là sự vắng bóng của các phương tiện giao thông, sự đa dạng của không gian và những cửa tiệm tuyệt vời. Quảng trường San Marco nằm ở trung tâm mà có bãi đỗ xe thì sẽ là một thảm họa. Hoàn toàn không thể tưởng tượng nổi!

Đại lộ Champs-Elysees ở Paris, Pháp

Florence, khác với Paris hay Venice, là một thành phố kích thích người ta đi bộ. Vỉa hè ở phần trung tâm thị trấn hẹp, vậy nên đi bộ từ Ponte Vecchio tới Piazza della Signoria, người ta mặt đối mặt nhau và bước đi xung quanh nhiều người. Ô tô không hợp với thiết kế của Florence và nếu người trong thị trấn ngăn xe vào trung tâm, sự thay đổi có thể thật phi thường.

Ô tô không chỉ bó buộc người ta trong một cái kén bằng kính và kim loại, ngăn cách họ với thế giới bên ngoài, mà nó còn là phương cách làm tiêu biến cảm giác chuyển động trong không gian. Mất đi cảm giác chuyển động dẫn đến sự cô lập, không chỉ với mặt đường và tiếng ồn xung quanh mà còn với thị giác. Người tài xế lái xe di chuyển trong một dòng phương tiện giao thông trên đường cao tốc, trong khi chi tiết quan sát được ở khoảng cách gần bị nhòa đi bởi tốc độ.

Toàn bộ cơ thể con người được thiết kế để di chuyển trong môi trường bình thường với tốc độ ít hơn 5 mile/h (8 km/h). Có bao nhiêu người có thể nhớ những thứ nhìn đã trông thấy khi đi qua vùng đồng quê sau một tuần, nửa tháng hay một một tháng? Ở tốc độ đi bộ, ngay cả người đi bộ cũng có thể nhìn thấy những cái cây, lá và cành, bề mặt của những tảng đá, những hạt sỏi, những con kiến, bọ cánh cứng, sâu bướm, thậm chí cả chuột cống, ruồi và muỗi, không nói gì về chim và động vật hoang dã khác. Không chỉ trường nhìn cận cảnh bị nhòa bởi tốc độ của xe hơi, mà mối liên hệ của ai đó với đồng quê cũng thay đổi rất lớn. Tôi nhận ra điều đó một lần trong khi lái xe về từ Santa Fe, New Mexico, tới vùng dự trữ Indian ở bắc Arizona. Con đường dẫn tôi đến phía bắc núi Taylor, nơi tôi biết rất rõ vì đã đi qua sườn phía nam năm mươi lần trên tuyến cao tốc Albuquerque – Gallup. Đang lái xe ở phía tây (với tốc độ bình thường của ô tô), người ta nhìn thấy ngọn núi quay đi khi những diện khác của nó hiện ra. Một cái nhìn toàn cảnh được hoàn thành trong một hoặc hai giờ, và kết thúc với những vách đá sa thạch đỏ Navajo bên ngoài Gallup. Với tốc độ đi bộ (có thể cưỡi ngựa nếu phải đi xa), ngọn núi không di chuyển hay quay đi. Không gian và khoảng cách cùng tự thân mảnh đất có nhiều ý nghĩa. Khi tốc độ tăng lên, sự gắn kết cảm giác biến mất, cho đến lúc một người phải trải qua sự thiếu thốn cảm giác thực. Trong những chiếc xe hiện đại kiểu Mỹ, cảm giác vận động của không gian thiếu vắng hẳn. Khoảng không vận động và khoảng không thị giác bị cô lập với nhau, chúng không còn tăng cường bổ sung cho nhau. Giảm sóc mượt, da ghế êm, lốp mềm, tay lái trợ lực và mặt đường mượt mà tạo ra một trải nghiệm giả tạo của mặt đất. Một nhà sản xuất sẽ không ngừng quảng cáo về sản phẩm của ông ta bằng cách giới thiệu chiếc xe của hạnh phúc trọn vẹn: bồng bềnh như mây khi lướt trên đường!

Những chiếc ô tô cô lập con người với môi trường xung quanh và tương tác từ người khác. Chúng chỉ cho phép những kiểu tương tác hạn chế nhất, thường là cạnh tranh, hung hăng và phá hoại. Nếu con người xích lại gần nhau lần nữa, trao nhau cơ hội làm quen và gắn kết với tự nhiên, cần phải tìm ra một số giải pháp cơ bản cho những vấn đề mà xe hơi đặt ra.

NHỮNG TÒA NHÀ BAO CHỨA CỘNG ĐỒNG

Nhiều nhân tố bổ sung cho ô tô đang tổng hợp lại để dần dần bóp nghẹt “trái tim” đô thị của chúng ta. Thời điểm này, không thể nói: liệu xung đột ở vùng trung tâm thành phố có thể xóa bỏ được hay không, hay liệu những hệ quả cuối cùng sẽ là gì nếu xu hướng này không kết thúc. Dù vậy, có một vài điểm khích lệ nhỏ trên bình diện ngang đáng để xem xét. Một trong số chúng là Marina City, những tòa tháp (nhà ở) hình trụ tròn của Bertrand Goldberg. Những tòa tháp tọa lạc ở một ô phố khu trung tâm bên bờ sông Chicago. Những mặt sàn xoáy chôn ốc lên trên và tạo ra khoảng đỗ xe mở, ngăn cách với đường phố cho những cư dân sống bên trong. Marina City có nhiều đặc điểm đáp ứng những nhu cầu của cư dân thành phố: những nhà hàng, các bar và quán rượu, một siêu thị, cửa hàng rượu, rạp hát, sân trượt băng, nhà băng, bến tàu và thậm chí một triển lãm nghệ thuật. Nó an toàn, được bảo vệ khỏi thời tiết và có thể là cả bạo lực (bạn không cần đi ra ngoài vì bất kì điều gì). Nếu doanh số thuê nhà không quá lớn vì không gian nhỏ trong các căn hộ, một số người thuê có thể quen biết nhau và phát triển một “cộng đồng”. Tầm nhìn ra ngoài cảnh quan, đặc biệt vào buổi đêm, là một điểm đáng chú ý và một trong những tài sản giá trị nhất của thành phố, nhưng bao nhiêu người đánh giá đúng về nó? Về mặt thị giác, thiết kế của Marina City thật tuyệt vời. Nhìn từ một khoảng cách, những tòa tháp trong như những cây thông trên những rặng núi quanh vịnh San Francisco. Những ban công kích thích vào vùng fovea trên võng mạc, và mời gọi người xem tới gần hơn, hứa hẹn những bất ngờ mới trong mỗi lần dịch chuyển trường nhìn. Một cách tiếp cận đầy hứa hẹn khác tới việc thiết kế đô thị được phát triển bởi Chloethiel Smith, một kiến trúc sư ở Washington, D.C. Cô Smith luôn quan tâm tới khía cạnh con người trong kiến trúc, vận dụng để tạo nên điều thú vị, sự thỏa mãn về mặt thị giác, cùng với những giải pháp đồng nhất về mặt con người cho những vấn đề của hoạt động tái thiết đô thị. Những chiếc xe hơi được xử lý một cách kín đáo nhất có thể và tránh xa mọi người.

Những nhà thiết kế đô thị và kiến trúc sư nên đón nhận những cơ hội thử nghiệm những hình thức mới mẻ, cấp tiến, tích hợp sẽ duy trì một cộng đồng trọn vẹn. Một trong những ưu điểm của Marina City – ngoại trừ sự tuyệt vời mà nó sinh ra về mặt hình ảnh – là nó tạo ra một số lượng xác định và được mô-tả-rõ-ràng của không gian bao chứa mà không gây ra “hiệu ứng chết chóc” của những đoạn hành lang dài. Sẽ không có việc tràn ra hay lan rộng từ cấu trúc này. Khuyết điểm chính của nó là không gian sống chật trội, chỉ có một số người thuê thuật lại trải nghiệm họ không giống như giam cầm. Trong trung tâm thành phố, người ta cần nhiều không gian trong nhà hơn, nhất định không thể ít hơn. Ngôi nhà phải là một liều thuốc giải tỏa những căng thẳng đô thị.

BẢN THÔNG CÁO CHO QUY HOẠCH THÀNH PHỐ TRONG TƯƠNG LAI

Thành phố tồn tại với nhiều dạng thức trong khoảng năm nghìn năm qua. Câu chuyện có vẻ không giống như kiểu sẽ có phiên bản “được làm sẵn” để thay thế. Tôi không còn nghi ngờ gì về chuyện thành phố là một biểu hiện của nền văn hóa của những con người sản sinh ra nó, một sự tiếp nối của xã hội, thể hiện nhiều chức năng phức hợp và tương tác nội bộ, trong đó có những chức năng ta chưa từng quan tâm tới. Nếu nhìn từ góc nhìn của một nhà nhân chủng học, người ta có thể e sợ đủ thứ khi tiếp cận thành phố, và kiến thức của chúng ta gần như không đủ để lên kế hoạch một cách thông minh cho thành phố tương lai. Nhưng chúng ta phải lên kế hoạch vì tương lai đã ập tới rồi. Có một vài điểm mà quyết định tới những giải pháp cho một số vấn đề mà chúng ta đang đối mặt hiện nay. Đó là:

  1. Tìm kiếm những phương pháp thích hợp để tính toán và ước lượng quy mô dành cho con người ở tất cả các kích thước, bao gồm cả những khoảng ẩn của văn hóa. Việc chia lưới hợp lý quy mô mà con người và xe hơi đặt ra là một thách thức với chúng ta.
  2. Tạo lập cách sử dụng mang tính xây dựng của các vùng sắc tộc. Bằng cách nào đó, có một định dạng gần gũi giữa hình ảnh về bản thân mà con người có và không gian anh ta cư trú. Rất nhiều tác phẩm văn học đại chúng hiện nay đã cống hiến cho nghiên cứu về bản sắc phản ánh mối quan hệ này. Một động lực rất thực tế ở đây là để khám phá và thỏa mãn những nhu cầu của người Mỹ nói tiếng Tây Ban Nha, người da đen và những nhóm sắc dân khác. Nhờ đó, những không gian mà họ cư trú không chỉ tương xứng với những nhu cầu của họ, mà còn củng cố những yếu tố tích cực trong nền văn hóa giúp mang lại bản sắc và sức mạnh.
  3. Giữ gìn những không gian ngoài trời lớn và có thể sẵn-sàng-sử-dụng-được. London, Paris và Stockholm là những mô hình mà nếu điều chỉnh hợp lý sẽ chứng minh được tính hữu dụng với các quy hoạch gia Mỹ. Những mối nguy ở nước Mỹ hiện nay đến từ sự phá hoại những không gian ngoài trời. Việc này có thể cực kì nguy hiểm, nếu không muốn nói là chết người, với toàn thể quốc gia. Việc giải quyết vấn đề không gian ngoài trời và nhu cầu tương tác với thiên nhiên của con người bị rối rắm thêm bởi tình trạng gia tăng tỉ lệ tội phạm và bạo lực, đi cùng với những “vùng trũng hành vi” trong thành phố. Những công viên và bãi biển đang trở nên nguy hiểm hơn từng ngày. Điều này chỉ tăng cường cảm giác đông đúc mà cư dân đô thị phải trải qua khi họ bị cô lập với các cơ sở giải trí. Ngoài các khu vực vui chơi giải trí của thành phố và vành đai xanh, việc bố trí một loạt các không gian ngoài trời nguyên bản là một trong những nhu cầu lớn nhất của chúng tôi. Thất bại trong việc thực hiện bước này bây giờ có thể đồng nghĩa với thảm họa cho các thế hệ tương lai.
  4. Bảo tồn những công trình và khu dân cư cổ có giá trị khỏi “quả bom” tái thiết. Chẳng cứ mới là tốt, mà cũ là tệ. Có nhiều nơi trong những thành phố của chúng ta – đôi khi chỉ một vài ngôi nhà hoặc một cụm nhà – xứng đáng được bảo tồn. Chúng thể hiện sự tiếp nối với quá khứ và đóng góp cho sự đa dạng của cảnh quan đô thị.

Trong bài nhận xét vắn tắt này, tôi không có gì để nói về những bước tiến vượt bậc của người Anh đã làm trong công cuộc tái thiết đô thị với quy hoạch London, được đề ra đầu tiên bởi Sir Patrick Abercrombie và Mr. J. H. Foreshaw vào năm 1943. Bằng việc xây dựng “những khu phố mới”, người Anh đặc biệt chứng minh rằng họ không e ngại việc quy hoạch. Tương tự, những hàng rào bảo vệ mở của đất nước (những vành đai xanh) phân cắt những trung tâm chính, chúng đảm bảo cho những thế hệ tương lai chống lại hình mẫu siêu đô thị mà chúng ta trải nghiệm ở Mỹ khi sáp nhập các thành phố. Dĩ nhiên, có những sai phạm, nhưng những ban ngành cồng kềnh quản lý những thành phố của chúng ta có thể học hỏi từ người Anh, rằng: quy hoạch phải được định hướng và áp dụng nhất quán. Dù vậy, cần phải làm rõ việc sử dụng những quy hoạch của người Anh như một mô hình chính sách, không phải thực tế, vì những quy hoạch của họ không thể áp dụng trong trường hợp của Mỹ. Chúng ta là một nền văn hóa rất khác.

Không kế hoạch nào là hoàn hảo, nhưng những kế hoạch vẫn rất cần thiết nếu chúng ta muốn tránh những lộn xộn toàn diện. Bởi môi trường tạo ra những mối quan hệ, và các quy hoạch gia không thể nghĩ hết mọi thứ, nên những đặc trưng quan trọng sẽ không thể bị bỏ qua. Để giảm thiểu hậu quả nghiêm trọng của những sai lầm trong quy hoạch tác động lên con người, cần phải tích hợp những chương trình nghiên cứu với đầy đủ nhân sự và được tài trợ một cách hợp lý. Một nghiên cứu như vậy không xa xỉ hơn chiếc giác kế trong buồng lái máy bay.

14. KHÔNG GIAN GIAO TIẾP VÀ TƯƠNG LAI CỦA CON NGƯỜI

Cuốn sách này này nhấn mạnh rằng hầu hết mọi thứ mà con người và những thứ họ làm gắn với trải nghiệm không gian. Cảm giác của con người về không gian là một sự tổng hợp của nhiều dữ liệu cảm quan đầu vào: thị giác, thính giác, vận động, khứu giác và nhiệt. Mỗi thứ trong số chúng cấu thành một hệ thống phức tạp – chẳng hạn, có hàng tá cách khác nhau trong việc trải nghiệm chiều sâu thị giác – và tự thân mỗi loại cũng được định hình bởi văn hóa. Vì thế, không có lựa chọn nào khác ngoài việc chấp nhận sự thật rằng con người – phía sau là những nền văn hóa khác nhau – sống trong những thế giới cảm quan khác biệt.

Chúng ta học được từ nghiên cứu về văn hóa rằng việc định hình thế giới nhận thức là một chức năng không chỉ của văn hóa mà còn của mối quan hệ, hoạt động và cảm xúc. Thế nên, con người từ những nền văn hóa khác nhau, khi thông dịch hành vi của người khác, thường lầm lẫn về mối quan hệ, hoạt động hoặc những cảm xúc. Điều này dẫn đến hoặc là sự liên minh trong những cuộc gặp gỡ, hoặc là những hoạt động truyền thông lộn xộn.

Vì vậy, nghiên cứu văn hóa trong cảm nhận về không gian giao tiếp là nghiên cứu về cách sử dụng “bộ máy thụ cảm” của họ trong những trạng thái cảm xúc khác nhau trong suốt các hoạt động khác nhau, trong những mối quan hệ khác nhau, và trong những thiết chế và bối cảnh khác nhau. Không một kĩ thuật nghiên cứu nào khảo sát đối tượng phức tạp và đa chiều như không gian giao tiếp. Kĩ thuật phục vụ là một chức năng riêng biệt của không gian giao tiếp được kiểm nghiệm ở một khoảng thời gian nhất định. Dù vậy, nói chung, trong tiến trình nghiên cứu, tôi có nhiều quan tâm với cấu trúc hơn là bối cảnh và nhiều hứng thú với những câu hỏi “Như thế nào?” hơn là “Tại sao?”

HÌNH THỨC VÀ CÔNG NĂNG, NỘI DUNG VÀ CẤU TRÚC

Hỏi những câu được đặt ra với hình thức – công năng như kiểu “Chúng ta cầm nắm được vì chúng ta có tay hay là chúng ta có tay bởi chúng ta cầm nắm được?” là không có kết quả, theo quan điểm của tôi. Tôi không bận tâm với nội dung của văn hóa như một số đồng nghiệp của mình, vì kinh nghiệm của tôi là quá tập trung vào nội dung thường dẫn tới mất định hướng. Điều này cũng dẫn tới thất bại trong việc hiểu về những hoàn cảnh, nơi nội dung bị lược đi khá nhiều. Đây là ví dụ về trường hợp của văn hóa da màu. Thực tế, nhiều người tin rằng những người da màu Mỹ không có văn hóa của riêng mình vì nội dung hiển hiện của văn hóa họ rất yếu ớt. Với họ, người Mỹ gốc Tây Ban Nha ở New Mexico nói tiếng Anh, gửi con vào trường nội thành, sống trong một ngôi nhà hiện đại và lái Buick có cùng văn hóa với những hàng xóm người Mỹ gốc Anh của anh ta. Trong khi tôi đi tìm ngoại lệ cho quan điểm này, nó thực sự thay đổi chậm chạp, bằng chứng là cuốn sách của Glazer và Moynihan “Beyond the Melting Pot”. Quan điểm mà tôi mong muốn lập ra thật mơ hồ và dễ gây hiểu lầm. Đó là bởi tôi đã khái quát hóa về các nhóm có thể phân biệt rõ ràng trong một vài bối cảnh khác nhau (hầu hết đời sống riêng tư của họ), và không thể phân biệt (chủ yếu trong cuộc sống công cộng của họ), hoặc nơi nội dung khá tương đồng nhưng lại cấu trúc theo nhiều cách khác nhau. Giống như bạn đọc nghi ngờ, những hình mẫu không gian giao tiếp chỉ là một vài trong nhiều điểm khác nhau cho phép con người phân biệt nhóm này với nhóm kia.

Chẳng hạn, tôi vừa mới tiến hành nghiên cứu trên việc giao tiếp không lời giữa những người da màu nghèo và những người da trắng tầng lớp trung lưu. Những khác biệt trong việc sử dụng thời gian thể hiện một nguồn bất đồng hết sức thông thường. Ngoài ra, giọng nói, bàn chân, bàn tay, mắt, cơ thể và không gian đều được sử dụng khác nhau, điều này thường gây ra thất bại khi xin việc đối với người da màu, thậm chí cả những người nghị lực. Những thất bại này không phải lúc nào cũng xảy ra vì định kiến, song người ta có thể theo dõi những trường hợp mà cả hai bên đều hiểu sai hành vi của nhau. Chung quy lại, cách giao tiếp của người da màu mà tôi và sinh viên đang nghiên cứu khá mờ nhạt, do đó ngay cả những dấu hiệu phản ánh nỗi khát khao công việc của người da màu có thể không được người phỏng vấn da trắng – người đang mong chờ động lực mạnh mẽ như một nhân chứng quan trọng cho thấy ứng viên sẽ làm tốt – phát hiện ra. Ở những lần như vậy, người ta có thể xác định mối nguy của nội dung quá tải. Người da màu nhận thức được người đối thoại đang không “đọc được” anh ta. Những gì anh ấy không biết là: trong khi anh ấy có thể nhận thức được những sắc thái trong mối tương tác da trắng – da màu tốt hơn người da trắng, thì vẫn còn rất nhiều điểm anh ta không thể lần ra.

Vì người Mỹ chúng ta định hướng sự chú ý của mình tới nội dung nhiều hơn là cấu trúc hoặc hình thức nên tầm quan trọng của văn hóa thường bị giảm xuống. Chúng ta có xu hướng bỏ qua ảnh hưởng của hình thức công trình tác động lên con người sống bên trong, hay là những hệ quả của sự quá tải với người da màu, hoặc là hậu quả của việc sở hữu giác quan của một người được điều hòa bởi nền văn hóa Negro trong khi cố gắng đối phó với các giáo viên "trắng" và những tư liệu học tập "trắng". Quan trọng nhất, chúng ta liên tục thất bại trong việc chấp nhận thực tế về khác biệt văn hóa trong biên giới đất nước. Người da màu, người Anh-điêng, người gốc Tây Ban và người Puerto Rico bị đối xử như thể họ là những kẻ ngoan cố, vô giáo dục, họ cũng như tầng lớp trung lưu Mỹ – là di sản của văn hóa Bắc Âu – thay vì những-gì-họ-thực-sự-là – thành viên của những vùng miền văn hóa khác biệt với hệ thống giao tiếp, tổ chức và giá trị của riêng họ. Bởi người Mỹ chúng ta có một “một thiên hướng văn hóa”, chúng ta tin rằng chỉ trong những khác biệt bề nổi giữa con người trên toàn thế giới. Chúng ta không chỉ mất đi sự phong phú đến từ việc hiểu biết về những nhóm người khác mà còn thường hay chậm chạp sửa sai những hành xử của mình khi những khó khăn bắt đầu tăng lên. Thay vì ngừng lại và chờ vài giây để nhìn, chúng ta có khuynh hướng làm tới, điều có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng mà thường không đoán định được. Hơn nữa, việc bận tâm tới nội dung thường che đi những chức năng khái quát hoặc dự báo của giao tiếp đã được nhắc đến trong chương 1. Khi người ta không phản hồi những giao tiếp khái quát, “cam kết cảm xúc” sẽ dịch chuyển ra ngoài nhận thức tới những mức độ cao hơn của nó. Đó là khi mà cái “tôi” được gắn kết một cách có ý thức thì khó mà trở về trạng thái cãi vã; trong khi khả năng đánh giá chính xác những biến chuyển làm mượt “bộ lông đang xù” trước khi người ta nhận thức được một tình huống thậm chí còn đang phát triển. Ở động vật, xung đột khủng khiếp nổ ra khi trình tự tổng thể bị rút ngắn. Điều này xảy ra với tình trạng quá tải hoặc khi động vật lạ được đưa vào tình trạng ổn định.

QUÁ KHỨ SINH HỌC CỦA LOÀI NGƯỜI

Người phương Tây đặt bản thân tách rời khỏi tự nhiên, vì thế cũng là tách rời khỏi thế giới động vật. Họ có thể tiếp tục làm ngơ những chân lý về sự kế tục động vật của mình nếu không ở trong tình trạng bùng nổ dân số, điều đã trở nên đặc biệt dữ dội trong hai mươi năm qua. Nó, cùng với sự xói mòn bên trong các thành phố có người nghèo khổ từ các vùng nông thôn, đã tạo ra điều kiện mang tất cả dấu ấn của quá trình tích tụ dân số và sự đổ vỡ theo sau nó trong thế giới động vật. Người Mỹ trong những thập niên 30, 40 của thế kỉ 20 từng sợ những vòng xoay kinh tế; ngày nay, chúng ta càng kinh hãi hơn với vòng xoay dân số.

Rất nhiều nhà tập tính học lưỡng lự đề xuất rằng những phát hiện của họ áp dụng cho con người, thậm chí là cho những loài đông đúc và quá tải, được người ta biết đến nhờ việc chịu đựng những rối loạn tuần hoàn, những cơn đau tim và khả năng kháng cự thấp với dịch bệnh. Một trong những khác biệt chính giữa con người và động vật là con người kiểm soát được bản năng bằng việc phát triển những phần nâng cấp của mình, rồi tiến hành sàng lọc các giác quan, nhờ đó anh ta có thể tiếp nhận nhiều người hơn trong một không gian nhỏ hơn. Sự ngăn chia giúp ích, nhưng hoạt động tích tụ cực điểm có thể vẫn gây chết người. Ví dụ cuối cùng tình trạng quá tải dân số nghiêm trọng ở đô thị trong một thời gian dài là ở thời Trung Cổ, một thời kì được biết đến nhiều với những dịch bệnh hoành hành.

Nhà sử học tại Havard tên Wiliam Langer trong bài báo “The Black Death” (cái chết đen) đã khẳng định từ 1348 đến 1350, sau một thời kì phát triển nhanh, dân số châu Âu giảm một phần tư bởi dịch bệnh. Lây truyền bọ chét từ chuột sang người, dịch bệnh này có nguyên nhân từ một loại sinh vật đặc biệt (Bacillus pestis). Còn nhiều tranh cãi về lý do dịch bệnh chấm dứt. Trong khi mối quan hệ giữa con người và dịch bệnh thực sự phức tạp thì có một số thứ gợi ra: sự kết thúc của bệnh dịch trùng khớp với những thay đổi về mặt xã hội và kiến trúc – thứ đã giảm thiểu đáng kể áp lực của cuộc sống thành thị. Tôi đang nhắc tới những thay đổi trong ngôi nhà mà Philipe Aries miêu tả, nó được bảo vệ và kiên cố hóa (xem chương 9). Những hoạt động đó thay đổi điều kiện được hậu thuẫn bởi tình hình chính trị ổn định đã giảm đi đáng kể những sức ép từ cuộc sống đông đúc ở thành thị.

Nếu con người quan tâm tới những nghiên cứu động vật, anh ta có thể phát hiện những nét chính đang dần dần hiện lên trong cơ chế nội tiết – không giống như cái nhiệt kế trong nhà. Khác biệt duy nhất là thay vì điều tiết nhiệt độ thì hệ thống đó điều hòa nội tiết – cơ chế điều tiết dân số đã nhắc đến ở những chương đầu cuốn sách. Đa phần những khám phá nổi bật của những nhà tập tính học thực nghiệm – mà nghiên cứu của họ được mô tả trong chương 2 và 3 – là các hậu quả sinh lý và hành vi thảm bại của quá trình tích lũy dân số trước thời kì sụp đổ, cùng với đó là những ưu thế được các loài chuộng, để lập lãnh thổ, không gian của riêng mình.

Những báo cáo gần đây được thực hiện bởi hai nhà bệnh lý học H. L. Ratcliffe và R. L. Snyder trong phòng thí nghiệm Penrose của vườn thú Philadelphia có thể rất thú vị. Báo cáo dựa trên một nghiên cứu 25 năm về nguyên nhân cái chết của 16 000 loài chim và thú đã chứng minh rằng một lượng lớn động vật không những bị căng thẳng từ tình trạng quá tải dân số mà còn phải chịu đựng những bệnh lý giống như con người: cao huyết áp, bệnh về hệ tuần hoàn và tim, thậm chí khi chúng được cho ăn với chế độ ít béo.

Những nghiên cứu về động vật cũng chỉ cho chúng ta biết rằng sự đông đúc không tốt cũng chẳng tồi, nhưng xa hơn sự quá khích và những gián đoạn trong quan hệ xã hội như một hậu quả của việc chồng lấn những khoảng cá thể dẫn tới sụp đổ dân số. Sự ngăn chia hợp lý có thể giảm thiểu cả gián đoạn lẫn sự quá khích và cho phép tập trung dân cư ở mức cao hơn. Sự ngăn chia là thứ gì chúng ta nhận được từ những căn phòng, căn hộ và tòa nhà trong thành phố. Các làm đó vẫn còn tác dụng cho tới khi nhiều cá nhân tụ tập trong một phòng; rồi một sự thay đổi sẽ diễn ra quyết liệt. Những bức tường sẽ không còn che chắn và bảo vệ nữa, thay vào đó là sức ép nội tại trong cư dân.

Bằng sự vượt trội của mình, con người đã giảm đi đáng kể khoảng xung đột trong tình trạng sơ khai của mình, một tình trạng hiển nhiên xảy ra khi mật độ dân số cao. Phản ứng xung đột (duy trì cách biệt giữa một cá thể và địch thủ) là một trong những phương cách căn bản và thành công để ứng phó với nguy hiểm, song cần có đủ không gian để nó thực hiện chức năng của mình. Thông qua một quá trình tập làm quen, phần lớn những sinh vật bậc cao, gồm có con người, có thể dồn vào một diện tích cho trước mà vẫn cảm thấy an toàn, những cuộc gây hấn được đặt dưới sự kiểm soát. Dù vậy, nếu con người kinh hãi lẫn nhau, nỗi sợ sẽ triệu hồi phản ứng xung đột, bùng phát nhu cầu không gian. Nỗi sợ, cộng với sự đông đúc, rồi sẽ sinh ra hoảng loạn.

Sai lầm trong việc đánh giá tầm quan trọng của mối quan hệ mật thiết giữa con người và môi trường đã dẫn đến những bi kịch trong quá khứ. Nhà tâm lý học Marc Fried và nhà xã hội học Chester Hartman đã báo cáo tình trạng đau buồn và suy sụt sâu sắc trên bộ phận người dân tái định cư ở khu West End, Boston theo sau việc phá hủy khu làng đô thị của họ, như một phần của chương trình tái thiết. Dân West End buồn rầu không chỉ vì môi trường mà còn vì toàn bộ những mối quan hệ phức tạp – công trình, đường phố, con người – giống như một phần tích hợp trong cách sống. Thế giới của họ đã bị tan vỡ.

NHU CẦU CẦN NHỮNG CÂU TRẢ LỜI

Để giải quyết nhiều vấn đề đô thị phức tạp đang hiện diện ở Hợp Chúng Quốc hiện nay, chúng ta phải bắt đầu bằng việc đặt nghi vấn cho những giả thiết cơ bản liên quan đến mối quan hệ giữa con người và môi trường, cũng như giữa con người với nhau. Hơn hai nghìn năm trước, Plato đã kết luận rằng việc khó nhất trên đời là hiểu bản thân mình. Chân lý này liên tục được chứng thực, song những ẩn ý của nó thì vẫn chưa được nhận thức đầy đủ.

Phát hiện về bản thân trên cấp độ văn hóa thậm chí còn có thể cấp thiết hơn nó trên cấp độ cá nhân. Dù vậy, độ khó của việc này sẽ không khiến chúng ta xem nhẹ tầm quan trọng của nó. Người Mỹ cần phải sẵn lòng bảo hộ và tham gia vào đội nghiên cứu trên diện rộng được định hướng tới việc học hỏi nhiều hơn về mối quan hệ nội tại của con người và môi trường. Một điểm liên tục được nhấn mạnh bởi các nhà tâm lý học giao tiếp là sai lầm của việc giả định hai bên tách biệt, cô lập và không là một phần của hệ thống tương tác. (xem cuốn “Explorations in Transactional Psychology” – Những khám phá trong Tâm lý học giao tiếp – của Kilpatrick).

Trích dẫn lời của Ian Mc Harg viết về “Man and His Envrironment” [Con người và môi trường xung quanh] trong cuốn “The Urban Condition”:

. . . Không một loài nào có thể tồn tại mà không có môi cảnh, không một loài nào có thể tồn tại độc quyền trong môi trường, không loài nào có thể sống sót, duy trì như một thành viên bất khả xâm phạm trong một quần xã sinh thái. Mỗi thành viên đều phải điều chỉnh những thành viên khác trong quần xã và môi trường để tồn tại. Con người không nằm ngoài phép thử này.

Không chỉ có người Mỹ phải sẵn sàng bỏ tiền. Một số thay đổi sâu sắc hơn cần đến những cách khó để xác định được, chẳng hạn một sự hồi sinh tinh thần phiêu lưu và sự phấn khích của những ngày biên giới. Vì ngày nay, chúng ta đương đầu với đô thị và những biên giới văn hóa. Câu hỏi là: “Bằng cách nào ta có thể phát triển chúng?” Quá khứ bất-cần-suy-nghĩ đang khiến chúng ta tốn kém, vì sự hoang dã mà giờ đây, thứ ta phải làm chủ là một thế giới đòi hỏi bộ não nhiều hơn là cơ bắp. Chúng ta cần cả sự phấn khích lẫn ý tưởng, và chúng ta sẽ khám phá ra rằng: cả hai đều được tìm thấy trong con người hơn là trong sự vật, trong cấu trúc hơn là nội dung, trong sự gắn kết hơn là việc tách rời khỏi cuộc sống.

Những nhà nhân chủng học và nhà tâm lý học cần phải phát hiện ra cách tính toán những tỉ số liên quan đến con người theo một cách đơn giản và hợp lý. Tỉ dụ, một số nhóm người đã được biết tới, như người Ý và Hi Lạp, có một sự gắn kết cảm giác tốt hơn những nhóm người khác, chẳng hạn người Đức và người Scandinavi. Để lên kế hoạch một cách thông minh, chúng ta cần phải có một thước đo định lượng cho sự gắn kết như vậy. Một khi chúng ta biết cách tính toán các con số của sự gắn kết, những câu hỏi mà ta cần phải trả lời sẽ là: Mật độ tối đa, tối thiểu và lý tưởng cho nông thôn, thành thị và vùng ven đô là gì? Kích cỡ tối đa có thể của những nhóm khác nhau sống dưới các điều kiện đô thị đặt ra trước khi những điều tiết xã hội thông thường bắt đầu bị phá vỡ? Có những dạng khác nhau nào của những cộng đồng nhỏ? Họ muốn liên kết như thế nào? Bằng cách nào họ được tích hợp trong những tổng thể lớn hơn? Có thể phân loại họ được không, hay chỉ có một số lượng giới hạn có thể phân loại được? Bằng “hình thức trị liệu nào”, không gian có thể giúp giải tỏa những căng thẳng và chữa lành những căn bệnh của xã hội?

KHÔNG THỂ RŨ BỎ VĂN HÓA

Trong những hàm nghĩa vắn tắt nhất có thể, thông điệp của cuốn sách này không nằm ở chuyện con người gặp khó thế nào khi không thể rút bản thân ra khỏi nền văn hóa của chính mình, bởi nó đã ăn sâu vào gốc rễ hệ thống thần kinh và định hình cách anh cảm nhận thế giới. Đa phần văn hóa nằm ẩn và ngoài sự kiểm soát tùy ý, đan dệt lên sự tồn tại của con người. Ngay cả khi những mảng nhỏ của nền văn hóa được nâng tầm để nhận nhiều sự quan tâm hơn, chúng cũng khó để thay đổi, không chỉ vì đó là trải nghiệm mang tính cá nhân mà còn bởi con người không thể hành xử hay tương tác với tất cả theo một cách vô nghĩa ngoại trừ qua trung gian văn hóa.

Con người và công cụ mở rộng (phần nâng cấp) cấu thành một hệ thống liên hệ nội bộ. Sai lầm to lớn nhất là việc hành xử như thể con người là một đồ vật còn nhà anh ta, thành phố, công nghệ hay ngôn ngữ làm những món khác. Bởi sự liên kết nội tại giữa con người và công cụ mở rộng, chúng ta chú ý nhiều hơn đến những loại công mà ta tạo ra, không chỉ cho chính mình mà còn cho những người khác có thể bị bệnh vì nó. Mối quan hệ giữa con người và những công cụ đơn giản là một sự tiếp nối và một hình thức chuyên biệt hóa của mối quan hệ giữa cách sinh vật nói chung trong môi trường sống của chúng. Dù vậy, khi một cơ quan hay một quá trình bắt đầu nâng cấp, tốc độ tiến hóa tăng lên mức mà công cụ có thể tiếp quản. Đây là những gì chúng ta thấy trong những thành phố của mình và trong quy trình tự động hóa. Đây cũng là những gì Norbert Wiener nói khi ông đã thấy trước những mối nguy trong máy vi tính – phiên bản nâng cấp chuyên biệt của một phần bộ não con người. Bởi những công cụ đều bất động (và thường thì cũng “im hơi lặng tiếng” luôn), nên rất cần xây dựng phản hồi (nghiên cứu) bên trong chúng để qua đó, chúng ta có thể biết điều gì đang xảy ra, đặc biệt khi xem những công cụ định hình hoặc là kế tục môi trường tự nhiên. Phần phản hồi này phải được tăng cường cả trong thành phố lẫn cách cư xử của chúng ta trong những mối liên hệ sắc tộc.

Khủng hoảng sắc tộc, khủng hoảng đô thị và khủng hoảng giáo dục đều có liên quan đến nhau. Nếu xem xét một cách tổng thể, cả ba có thể coi như những mặt khác nhau của một cuộc khủng hoảng lớn hơn, sự phát triển tự nhiên quá mức của con người đang hình thành một chiều không gian mới – chiều sâu văn hóa – một “kích thước” không thể nhìn thấy bằng mắt. Câu hỏi là: “Con người có thể cố tình thờ ơ với nó – chiều sâu văn hóa – bao lâu nữa đây?
--- hết ---